Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2023

Truyện ngắn 47

 

GIẤC MƠ BLOUSE TRẮNG

Truyện ngắn của Quỳnh Anh

Ba đứa nhóm Tam Tài (tên tự đặt) chúng tôi – Hằng, Minh và Quỳnh - chơi thân với nhau từ nhỏ, cha đều là dân tập kết 1954 từ miền Trung ra đất Bắc, cùng ở khu tập thể Nam Đồng, chỉ khác nhà do được bố trí từ nhiều cơ quan, ngành nghề khác nhau. Ban đầu, ba ông còn độc thân, thường duy trì thói quen mỗi chiều thứ bảy tụ tập bên ghế đá công viên, uống nước lá do bác Huy (là công nhân chế biến lâm sản nên rất sẳn củi) nấu từ mấy ngọn lá cẩm voi tím (còn gọi là chằm khâu) - mà bác Ngôn đã mang về từ Tây Bắc sau chuyến tìm tòi, khảo sát các cây thuốc nam của Sở Y tế, trồng ở chậu cây ngoài mái hiên căn phòng Thành đội cấp cho chú Hoài em út (tức Ba tôi, hồi đó là thiếu úy quân nhân chuyên nghiệp), ba người thường vừa nhâm nhi cốc nước lá màu tím đặc sánh, vừa nhắc lại những kỷ niệm thời chiến ở mỗi vùng quê khác nhau như Hương Điền, Phú Lộc, Hương Phú … với các phương ngữ rất đặc trưng kiểu mô tê răng rứa, hàng xóm ở khu Nam Đồng há hốc miệng ra nghe, thỉnh thoảng phải nhờ phiên dịch lại... Rồi theo thời gian, bác Huy, bác Ngôn, ba tôi lần lượt lập gia đình, với quy định thống nhất: hễ người này làm chú rể thì hai người kia cùng làm phù rể, dù có người còn độc thân, chẳng có kinh nghiệm gì để hướng dẫn. Bác Huy lập gia đình đầu tiên với bác Lành (hồi đó còn gọi là o), công nhân cùng đơn vị nên hai người được nới rộng thêm mấy mét vuông của căn phòng độc thân ra đầu hồi. Lấy nhau trước nhưng hai bác lại muộn đường con cái, bác Ngôn lập gia đình sau một năm mà bác Hiền (tức bác Ngôn gái, một bác sĩ tuyến huyện) lại đến Bệnh viện E cùng thời gian với với bác Lành, rồi chị Hằng và anh Minh cất tiếng khóc chào đời gần như cùng một ngày; theo vai vế chị Hằng vẫn được xếp trên, nghiễm nhiên làm chị, dù sau này khi nô đùa với anh Minh vẫn cùng xưng hô mi, tau rất ngang hàng…

Tôi lại rủi ro nhất, chịu cảnh mồ côi mẹ khi mới lọt lòng. Quỳnh, mẹ tôi mất sau cas sinh khó ra tôi: dù mọi người đã tích cực chuyển cấp cứu từ Bệnh viện E về Bệnh viện Phụ Sản, nghe nói sau hội chẩn là chứng nhau tiền đạo, hồi đó ngành Y xử trí chưa linh hoạt như bây giờ… Biết cô dâu út của nhóm đang mất máu trầm trọng, các bác đã chìa tay ra ngay, sẳn sàng hiến máu, khổ nỗi máu của Mẹ thuộc nhóm AB dạng Rhkhá hiếm - chuyên môn chỉ nói thế, nên máu của mấy bác không tiếp được; riêng bác Lành lại cùng nhóm máu, bác tình nguyện hiến ngay 2 đơn vị (nghe đơn giản, nhưng thật ra cho đến gần nửa lít máu) để còn nước còn tát. Nhưng bệnh tình Mẹ quá nguy kịch, đến khi tôi cất được tiếng khóc oe oe đầu đời sau cú vỗ vào mông của cô y tá, Mẹ tôi chỉ kịp mỉm cười ngắm nhìn đứa con gái mới lọt lòng, rồi nhắm mắt, xuôi tay… Mọi người ngồi chờ ngoài Phòng Sinh đều khóc, tiếc thương sự ra đi của Mẹ khi bác sĩ ra báo tin buồn. Trong lúc bận rộn tổ chức lễ tang cho Mẹ, Ba tôi không cần hỏi ý kiến mọi người, đã đặt tên cho tôi trong khai sinh là Nguyễn thị Hoài Quỳnh, vừa ghép tên cha mẹ, vừa tỏ lòng tiếc thương đến Mẹ, xem tôi là hình bóng của Mẹ còn lưu lại.

Vấn đề phải lo tiếp theo là cách thức nuôi nấng tôi khi vắng bóng người mẹ… Lương thiếu úy chuyên nghiệp của Ba tôi khó có thể nuôi bộ bằng sữa ngoài lâu dài trong thời bao cấp: gia đình nhà nội tôi đều ở trong Phú Vang-Huế, cách con sông giới tuyến Bến Hải, nhà ngoại ở Vũ Thư, Thái Bình nghèo khổ - thiên hạ thường mỉa mai Thái Bình là đất ăn chơi, Tay bị, tay gậy, khắp nơi tung hoành, mẹ là con thứ trong đám con gà vịt năm đứa của ông bà ngoại, đã phải xin thoát ly sớm để gia đình đỡ miệng ăn… Cũng may, bán bà con xa, mua láng giềng gần, tuy chị Hằng đã hơn một tuổi, gia đình đã làm lễ thôi nôi gần hai tháng, nhưng vẫn còn bú sữa mẹ vì cơ thể bác Lành còn khá nhiều sữa, có lẽ do cơ địa di truyền từ gia đình. Sau khi bàn luận với vợ, bác Huy nhắn với Ba tôi ngày ngày đem tôi sang bú nhờ bác Lành: chị Hằng và tôi được nuôi dưỡng từ cùng một nguồn sữa mẹ; người lạ đến nhà thấy hai đứa nhỏ chia nhau bú hai bên ngực bác Lành, cứ tưởng hai đứa là chị em sinh đôi vì - nói trộm vía - trông tôi mạnh khỏe, cứng cáp hơn bọn trẻ cùng tuổi. Sau đó, Ba đã xin vợ chồng bác Huy cho Ba nhận chị Hằng là con đỡ đầu: cuối tháng Ba gởi biếu bác Huy khi cân đường, khi hộp sữa, tiếng là gởi cho cháu Hằng, thực ra là để cảm ơn tấm lòng hồn hậu của hai bác… Dần dần khi lớn lên, tôi bắt chước chị Hằng, gọi bác Lành là Mạ rất quen miệng - ba gia đình đồng hương chúng tôi thống nhất bắt con cái, khi ở trong nhà chỉ được nói theo giọng Huệ (Huế), ra ngoài đường thì tùy ý, nói theo giọng của cô bảo mẫu hoặc cô giáo cấp một (chúng tôi đều học cấp mầm non, mẫu giáo và tiểu học ở trường Trung Tự, cách khu Nam Đồng hơn cây số, từ nhà đến trường chỉ đi bộ chưa đến nửa tiếng)… Mấy năm sau, gia đình bác Huy-Lành và Ngôn-Hiền lần lượt sản xuất thêm hai chú nhóc, đúng tiêu chuẩn quy định của Nhà nước về số con một thiếu, hai vừa, ba thừa, bốn quá… Quân số gia đình tôi đã chấm hết sau khi mẹ mất, nhưng tôi nghiễm nhiên được lên chức chị khi có hai em Hồng và Hoàng đều nhỏ tuổi hơn mình…

***

Tôi giới thiệu hơi dài dòng về lịch sử quan hệ, để mọi người thấy rõ tuy thuộc ba gia đình riêng biệt, nhưng chúng tôi thân thiết với nhau như người trong một nhà, có việc gì quan trọng cũng báo với nhau và cùng bàn bạc, hỗ trợ nhau cùng giải quyết. Đến năm 1975, đất nước thống nhất, ba nhà chúng tôi lên kế hoạch cùng về quê nội Thừa thiên trong mươi ngày, bọn trẻ con chúng tôi được rảnh mấy tháng hè (tôi học sớm một năm, ba chị em chúng tôi đều đã xong lớp 9, đến hè năm sau là tốt nghiệp cấp 3), còn Ba tôi và các bác đều thống nhất đăng ký nghỉ phép năm từ đầu tháng 8, nhằm dự được Lễ Vu Lan ở quê. Ngoài mục đích thăm gia đình anh chị em, thắp hương ở mộ ông bà, cha mẹ (các cụ đều đã mất trong thời kỳ chiến tranh), cả ba gia đình đều có ý định tìm hiểu các cơ sở thành phố Huế để chuyển về ở gần quê công tác lâu dài, đồng thời định hướng cho con cái tiếp tục việc học… Hai em Hồng, Hoàng chỉ học xong lớp 6, sẽ làm đơn xin chuyển về trường cấp hai Hai Bà Trưng (được đổi tên từ Đồng Khánh – tên nhà vua triều Nguyễn có lẽ không hợp thời), nghe nói học sinh trường này có truyền thống hiếu học, hy vọng môi trường này sẽ thúc đẩy các em học tập chăm chỉ.

Kế hoạch về thăm quê đã định hình, nhưng số phận nghiệt ngã lại đưa chúng tôi đổi khác. Sau ba ngày nghỉ ngơi đón Xuân Bính Thìn 1976, chuẩn bị đi làm sau Tết, bác Lành thấy cảm lạnh, tay chân nhức mỏi, đau đầu, đau khớp, thỉnh thoảng lại bị chảy máu chân răng dù không nhai vật cứng. Nghi ngờ, bác Huy đưa vợ đến khám ở Bệnh viện E thì sau khi xét nghiệm máu, hội chẩn, tập thể y bác sĩ đề nghị chuyển sang Bệnh viện K; người ngoài ngành y cũng biết K (Ca) là cancer tức ung thư - ai nghe qua cũng tái mặt. Chỉ sau một tháng chạy chữa bệnh bạch cầu cấp (nghe tên thế thôi, chúng tôi có biết nghĩa là gì), bác Ngôn là Kế toán trưởng Bệnh viện Bạch Mai, có điều kiện nhất, đã gởi mua đủ thứ thuốc quý bên Trung quốc để giúp điều trị, nhưng vô vọng – Trời kêu ai nấy dạ thôi. Cuối cùng, bác Lành đã tìm gặp Mẹ tôi bên kia cầu Nại Hà - nói theo cách văn hoa của các nhà văn chuyên viết về thế giới bên kia. Trong đám tang, bác Huy, chị Hằng, em Hồng khóc ngất sau vành tang trắng, Ba tôi cũng khóc khi nhớ lại ngày tôi chào đời, hai đơn vị máu Bác tiếp không giúp cho Mẹ qua khỏi, nhưng cũng tiếp sức cho Mẹ cầm cự đến khi thấy được hình hài con gái trước khi nhắm mắt. Tôi và mọi người trong lễ tang nghe rõ lời hứa của chị Hằng trước linh cữu của mẹ trong buổi lễ Triêu Điện: Con hứa với Mạ, sẽ học ngành Y để giúp cho những người mắc chứng bệnh trầm kha như Mạ. Thắt khăn tang bà mẹ nuôi, đứng cạnh chị, tôi không nói gì, trong thâm tâm, tôi cũng tự hứa với Mạ Lành - người mẹ thứ hai, người vú đã nuôi tôi trưởng thành bằng dòng sữa ngọt ngào tình nghĩa: sẽ mặc cho được áo blouse trắng, đi chung đường với chị Hằng.

***

Thế là chuyến đi về quê giảm mất hai người: bác Lành đã yên nghỉ tạm thời (sau mấy năm, phải cải táng từ Văn Điển lên Bất Bạt) dưới ba tấc đất, và chị Hằng xin phép ở lại để tham dự lớp ôn tập chuyên Hóa và chuyên Sinh, những môn căn bản để thi tuyển vào Y khoa. Tôi nao nức vào thăm đất Huế - quê nội, nơi sử sách cho biết công chúa Huyền Trân đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình để mang về châu Ô, châu Lý cho đất nước, và không quên hứa với chị Hằng, sẽ tìm hiểu sự khác biệt của các môn Toán-Hóa-Sinh giữa hai hệ 10 năm và 12 năm, đồng thời tìm mua các tài liệu ôn thi nếu thấy cần thiết. Riêng anh Minh xem chừng không thiết tha lắm với chuyện thi đại học, anh bảo gia đình đã dọn đường sẳn cho anh: sau khi tốt nghiệp cấp ba, anh sẽ nhập ngũ rồi đi học trường sĩ quan một binh chủng nào đó, tốt nghiệp ra trường với cấp bậc thiếu úy, lương cũng không thua bác sĩ y khoa, bác Ngôn ba anh bảo thể. Trước mắt, trong chuyến về quê này, anh định lùng khắp thành phố Huế mua mấy bộ truyện kiếm hiệp của Kim Dung, thứ đó mà đem ra Bắc, anh tha hồ lên mặt với bạn bè cùng lứa…

Vào đến bến xe Nguyễn Hoàng, ba gia đình chúng tôi tạm chia tay để về các vùng quê thăm bà con họ hàng, hẹn năm ngày sau sẽ gặp mặt ở khu vực Cửa giữa chợ Đông Ba, cùng đi thăm thú Đại nội, các lăng tẩm… Tôi khó lòng kể hết những nơi đã cùng Ba đến thăm, trò chuyện và liên hệ chuyển công tác, chỉ thuật lại kết quả: bác Huy đã được nhận về Xưởng Chế biến Lâm sản của Ty Lâm nghiệp, bác Ngôn dự kiến sẽ phụ trách Phòng Nghiệp vụ Y của Ty Y Tế (bác Hiền cùng về Ty – sau này đổi thành Sở), và Ba tôi về công tác ở Thành đội Huế. Tôi đã tìm mua được các bộ sách Toán Giải tích, Hóa Hữu Cơ, Sinh Di Truyền là những tài liệu chắc sẽ cần thiết nếu chị Hằng và tôi đều ấp ủ mộng thi vào đại học y khoa Huế. Những người Ba tôi quen biết bên ngành giáo dục đều khuyên chúng tôi nên thi đại học, vì con cán bộ tập kết thuộc nhóm II (chỉ sau nhóm I gồm anh hùng cách mạng - dân tộc ít người – cán bộ, bộ đội đi học – con thương binh, liệt sĩ), điểm chuẩn thường thấp hơn mấy điểm, trong khi các thí sinh đối chọi nhau từng nửa điểm một trong cuộc thi hơn mười người chỉ chọn một. Đúng hạn hết phép, chúng tôi lại mua vé xe trở ra Hà Nội, hành lý thêm một thùng các tông đựng sách, mà hơn nửa là các bộ truyện kiếm hiệp mà anh Minh nằng nặc đòi hai bác Ngôn-Hiền mua cho bằng được…

***

Sau khi thi tốt nghiệp cấp ba, từ đầu mùa hè, bộ ba Tam tài Hằng-Minh-Quỳnh theo gia đình vào Huế, chuẩn bị thi tuyển vào đại học y khoa Huế, như hồ sơ đã đăng ký dự tuyển từ hồi sau Tết Nguyên Đán. Tôi rất thán phục tính kiên trì học tập của chị Hằng, những tài liệu có được, chị nghiền ngẫm đến thuộc lòng, mỗi khi truy bài lý thuyết Sinh, Hóa với tôi, chị đọc ro ro như mở băng cát xét, thậm chí còn nhắc tôi (đang say mê nghe chị trả bài) dở sang trang nếu quên. Cả ba người chúng tôi đều đăng ký theo học Lớp Luyện Thi cấp tốc ở đường Trương Định, một cơ sở tư nhân quy tụ nhiều giảng viên tăm tiếng, chuyên dạy ba môn Toán, Hóa, Sinh cho sinh viên năm đầu tiên Trường Đại học Y khoa. Chăm chỉ, chuyên cần nhất trong nhóm vẫn là chị Hằng, chị không bỏ buổi học nào dù trời mưa ướt át hay gió bấc lạnh lẽo, tôi cũng cố theo với chị những buổi thắng được con ma lười, riêng anh Minh chỉ học bữa đực bữa cái, anh bảo thi rớt y khoa vẫn vinh quang hơn (!) rớt ngành khác, hơn nữa anh được gia đình dự trữ sẳn con đường nhập ngũ từ trước.

Tình cờ, tôi làm quen với chị Minh Minh, trong Trung tâm Luyện Thi Cấp Tốc khối B. Tôi chú ý đến chị, ban đầu vì thấy tên kép Minh Minh nghe hay hay, lại trùng với tên anh Minh, con hai bác Ngôn-Hiền, sau gần gũi hơn vì thấy chị khá chăm học, có lẽ mực độ chuyên cần tương đương với chị Hằng. Qua tâm sự, tôi biết chị lớn hơn tôi mấy tuổi, sẽ thi đại học lần thứ hai, có vẻ thuộc con nhà khá giả: nhà chị ở phố Trần Hưng Đạo, cha là bác sĩ lưu dung ở Ty Y Tế (rất muốn con học y khoa như mình, đã thuê thầy kèm Toán tại gia cho chị từ đầu năm học), mẹ mở cửa hàng tơ lụa, chị đi học bằng xe Honda dame còn khá mới, trong khi đa số học sinh lóc cóc đạp xe. Có lần chị mời tôi sang quán giải khát đối diện Trung tâm ăn cốc yaourt, món này tôi rất thích vì có vị chua chua dễ chịu, nhưng kinh tế eo hẹp, tôi chi biết mời lại chị nước vối hàng sáng ba hái ở vườn nhà (tiếng là quê ở Hương Phú, nhưng nhà nội tôi ở Phú Thượng, cách Huế con hói Mộc Hàn), nấu rồi rót vào trong chiếc bi đông Trung quốc Ba được cấp, chuẩn bị cho tôi đi học, chị uống nước vối lạ miệng trông thích thú như tôi ăn yaourt vậy. Biết chị mặc cảm với lý lịch ngụy dân (chị thuộc nhóm III, điểm chuẩn để đậu vào còn cao hơn bọn tôi mấy điểm), tôi mạnh dạn giới thiệu chị Minh Minh với nhóm Tam Tài, chị khiêm tốn chào hỏi mọi người, xin mời cả nhóm một chầu yaourt để ra mắt (dĩ nhiên, tôi đồng ý ngay), nhóm được đổi tên là Tứ Quý. Ban đầu mọi người đều hòa đồng với nhau, nhưng về sau, có vẻ như anh Minh tránh tiếp xúc với chị (do người lạ, lại khác biệt giới tính chăng?). Thế là nhóm Tứ Quý chúng tôi cùng thi vào Đại học Y khoa Huế. Có 3 cụm thi đều ở gần nhau: chị Hằng thi ở Trường Đại học Y khoa, chị Minh Minh, anh Minh đều thi ở Trường Trung học Y tế, tôi thi ở Tiểu học Vĩnh Ninh. Một thời gian sau, khi đã khá thân thiết, chị Minh Minh tâm sự với tôi: có người đề nghị trả chị năm chỉ vàng để giúp con họ cùng thi vào đại học y khoa, ngồi cùng phòng trong cụm Trung học Y tế, với số báo danh YHB-… rất gần với chị, nếu bạn ấy đậu vào sẽ trả gấp đôi, thành một lượng vàng Kim Thành! Tôi ngẩn ngơ nghĩ: Ba mình có kể chuyện, vét mãi mới được năm phân vàng làm của để dành, mình đâu chơi sang kiểu nhà giàu như nhà nọ…, rồi hỏi: Thế chị tính sao? Chị úp mở mỉm cười: Chị đang suy nghĩ, có tiền riêng cũng hay, tiêu pha gì khỏi xin cha mẹ. Nghe nói mấy năm nữa sẽ ra đời loại Honda Cub 78, chị định lên đời xe… Tôi lẩn thẩn tự nghĩ, chị Hằng cũng như mình, chỉ biết dựa vào sức học là chính, để thực hiện lời hứa trước vong linh Mạ Lành, nghe chuyện chị Minh Minh như nghe chuyện viễn tưởng…

***

Đầu tháng 7, kết thúc kỳ thi tuyển, chúng tôi hồi hộp trông chờ kết quả. Các thầy dạy ở Trung tâm đều được điều động chấm thi tuyển sinh, chúng tôi chỉ biết quây quần mổ xẻ các đề thi, dự đoán đáp án, thang điểm và tự nhận xét, đánh giá bài làm của mình. Một vài thầy giáo ở trường phổ thông, quen biết với chúng tôi, đã góp ý bổ sung để hoàn chỉnh đáp án tự làm của các đề thi. Tựu trung, trong nhóm Tứ Quý, chị Hằng có nhiều hy vọng đậu nhất, chị Minh Minh có khó hơn vì thuộc nhóm III, phải thêm đạt mấy điểm nữa mới có khả năng, tôi chỉ hy vọng 50%, còn anh Minh lửng lơ, nói rất tiếu ngạo giang hồ: … Đợi hồi sau sẽ rõ…

Ngày treo bảng điểm cũng là ngày yết điểm chuẩn, cả nhóm Tứ Quý đều sững sờ vì không ai trúng tuyển cả! Đau nhất là chị Hằng, vì so với điểm chuẩn 16.5 điểm cho nhóm II, chị dự kiến vẫn đủ điểm. Cầm phiếu báo điểm trên tay, chị lớn tiếng phân tích: môn Toán chỉ 5.5 điểm là hợp lý, vì Hằng làm sai câu Đại số 2 điểm và bỏ câu Hình học 2 điểm, có thể trừ đi nửa điểm lập luận. Môn Sinh chỉ 4.0 điểm khi thí sinh cao điểm nhất là 6.5 điểm, cũng hợp lý. Riêng môn Hóa, thầy Duy dạy chuyên Hóa ở Quốc Học chấm bài nháp của Hằng được tối thiểu 7.0 điểm, mà yết bảng chỉ có 2.5 điểm là thậm vô lý! Xem lại thời hạn nộp đơn phúc khảo còn hơn 10 ngày, chị hí hoáy lấy giấy viết ngay đơn xin phúc khảo, kèm theo tờ giấy nháp thi Hóa có ghi lại đầy đủ như bài thi. Chị định gởi luôn cả bản chính Giấy chứng nhận Giải Nhì chuyên Hóa toàn quốc được cấp năm trước, cả nhóm khuyên đừng, lỡ thư lạc thì mất cả chì lẫn chài; góp chung cả nhóm được 5 đồng, chạy đến tiệm photocopy ở đường Trần Hưng Đạo duy nhất còn hoạt động ở Huế, sao một bản rồi đến Phòng Công chứng Thành phố đóng dấu sao y bản chính, tiền còn lại vừa đủ đóng lệ phí phúc khảo đúng môn Hóa. Nộp đơn xong, chị Hằng thắp hương ở bàn thờ Mạ Lành (cả nhà chị đang tạm trú ở khu tập thể Xưởng Chế biến Lâm sản), khấn: Con xin Mạ phù hộ cho sự thật được sáng tỏ, con quá ức chế với kết quả này. Bác Huy và nhóm Tứ Quý đều trấn an chị Hằng, khuyên chị giữ bình tỉnh, chờ kết quả, đồng thời tìm gặp thầy Châu, giáo viên dạy luyện thi Hóa của Trung tâm, đồng thời thuộc Tiểu ban chấm thi môn Hóa, để báo tình hình…

Không hiểu vì hương hồn Mạ Lành linh thiêng hay vì Ban Tuyển Sinh Trường làm việc tích cực, chỉ trong tuần sau, gia đình bác Huy nhận được giấy báo chị Hằng trúng tuyển vào Đại học Y khoa Huế, kèm theo những thủ tục theo quy định. Thời điểm này chậm mất mấy ngày so với các thí sinh trúng tuyển khác, dù trên phong bì có in dấu KHẨN; nét chữ viết cũng khác lạ, so với nét chữ chị Hằng ghi địa chỉ nhà trên phong bì có dán tem để Nhà trường gởi phiếu báo điểm. Dù sao cũng là tin quá mừng, chị Hằng đã kính cẩn đặt giấy trúng tuyển lên bàn thờ và thắp ba nén hương như một ngày giỗ lớn. Trưa hôm đó, theo ý bác Huy, chị Hằng nấu 2 loong nếp để đồ xôi, ít chè đậu xanh mời nhóm Tứ Quý về dự. Bất ngờ này nối tiếp bất ngờ khác: mấy hôm sau, lần lượt chị Minh Minh và tôi lần lượt nhận giấy báo trúng tuyển vào Trường Đại học Y khoa, cũng trong phong bì có con dấu KHẨN kỳ lạ. Khỏi nói ai cũng biết, gia đình chị Minh Minh tổ chức ăn mừng con gái trúng tuyển long trọng như thế nào. Hàng xóm chung quanh được mời dự cứ tưởng ai đó trong nhà chị Minh Minh lập gia đình với người nước ngoài. Nhóm Tứ Quý dĩ nhiên được mời đến dự, chia vui với chị (chị có dặn kỹ: đừng quà cáp gì, có mặt là chính). Hôm đó anh Minh không đến, cũng không ra quê ngoại, có thể anh đang chuẩn bị nhập ngũ theo phương án hai…

***

Thắc mắc của chúng tôi dần dần được sáng tỏ sau mấy năm học.

Học đến năm thứ ba, tôi đã làm quen với cán bộ, công nhân viên trong trường, đặc biệt ở các phòng hành chính, có những văn thư chuyên đánh máy tốc ký như cô Hảo. Thông tin giải tỏa cũng từ cô Hảo văn thư mà ra: mỗi đợt tuyển sinh, Nhà Trường điều động ba văn thư đánh máy vào Ban Thư ký, kết hợp với ba bác sĩ để nhập điểm theo phách của ba môn, rồi gởi kết quả ra Bộ, nhập điểm và tính điểm tổng theo số báo danh từng thí sinh, gởi trả về Trường. Quy trình này loại bỏ chuyện tiêu cực khi nhập điểm, vì từ điển phách chỉ có chủ tịch Hội đồng Tuyển sinh (Hiệu trưởng) nắm. Nhưng, đã chặt chẽ nơi này lại lỏng lẻo nơi khác! Bác sĩ Mỹ được phân công đọc biên bản chấm môn Hóa với cô Hảo, mới lần đầu tham gia tuyển sinh, chắc chưa ý thức nguyên tắc phải chính xác đến từng ly, đã đọc từng nhóm năm điểm một lần để nhập kết quả cho nhanh. Chỉ một giây lơ đểnh, bác đọc nhảy một số phách, từ đó về sau, người có số phách trên nhận điểm của người có số phách dưới. Cô Hảo cứ đánh máy theo tiếng đọc của bác Mỹ, và sai lầm cứ tiếp tục đến khi nhập điểm và tính tổng thành kết quả… Nhận được đơn khiếu nại và xin phúc khảo của thí sinh Hoàng thị Hằng, Ban Tuyển Sinh đã đối chiếu với biên bản chấm và phát hiện ngay: Hằng được hai cán bộ chấm thi môn Hóa thống nhất cho 8.5 điểm, lại được hưởng 2.5 điểm của thí sinh có số phách tiếp theo. Tất nhiên, Ban Tuyển sinh phải trả lại số điểm 8.5 cho thí sinh Hằng, thành ra điểm tổng thừa đến 1.5 điểm để trúng tuyển. Đồng thời, qua kiểm tra, một số thí sinh cũng bị hỏng oan vì môn Hóa, đã được chuyển thành đậu, như chị Minh Minh vừa đúng 18.5 (Toán 8.5, hai môn kia đều 5), tôi (Hoài Quỳnh) đúng 16.5, và một vài thí sinh khác. May là bổ sung thêm số đậu KHẨN (tạm gọi như vậy), số thí sinh gọi nhập học vẫn nằm trong chỉ tiêu tuyển sinh mà Bộ cho phép. Cái khó là xử lý các thí sinh đậu oan do sai lầm nhập điểm Hóa: Nhà trường đã phải thành lập một Hội đồng Chấm thi bổ sung mỗi môn Hóa để chấm lại các thí sinh này, sau đó mời các thí sinh đến để giải thích nếu kết quả thay đổi… Ngoài việc sửa sai điểm số ra, Nhà trường cũng đề ra biện pháp xử lý người gây hậu quả: sau nhiều lần gọi lên, mời xuống để thẩm tra, cô văn thư đánh máy Hảo được xác định vô can, trách nhiệm quy hẳn về bác sĩ Mỹ, thì vị này đã xin chuyển công tác vào miền Nam theo gia đình sau kỳ thi tuyển sinh. Do hậu quả sai sót đã được xử lý kịp thời, người có lỗi đã đi xa nên vụ án được khép lại…

Riêng anh Minh, với phiếu báo điểm 16.0 (Toán 6.0, Hóa 5.0, Sinh 5.0 – tôi thấy hơi lạ vì hai môn học thuộc anh đạt ngang ngửa điểm chị Minh Minh, và chị Hằng, dù anh khá lười học), chỉ thiếu có 0.5 điểm để đậu. Nghe bác Hiền kể, anh đã làm đơn phúc khảo môn Sinh, ban đầu nghe nói điểm phúc khảo do Phó Tiểu ban Sinh chấm là 5.5 (thế là đủ đậu rồi!), nhưng sau Nhà Trường báo lại, cả Tiểu ban Sinh 6 người chấm tập thể bài anh Minh vẫn thống nhất chỉ là 5.0, như vậy anh Minh đã đậu trúng cành mềm nên không trúng tuyển. Đợt nghĩa vụ quân sự tiếp theo, anh đã nhập ngũ một tháng rồi được đơn vị trả về địa phương do thiếu sức khỏe, sau đó bác Ngôn xin cho anh học lớp Kỹ thuật viên 3 năm, tổ chức ở trong Trường…

***

Hai mươi năm sau…

Nhóm Tứ Quý chúng tôi đã tương đối trưởng thành, hàng ngày vẫn mặc chiếc áo blouse trắng mơ ước từ thuở nhỏ: chị Hằng sau khi tốt nghiệp loại Giỏi, được Trường giữ lại làm cán bộ giảng dạy, đã bảo vệ luận án tiến sĩ và được phong hàm phó giáo sư. Với cương vị Chủ nhiệm Bộ môn Ung Bướu, chị đóng vai trò nòng cốt trong Trung tâm Hỗ trợ Bệnh nhân Ung Thư, với mục tiêu giảm bớt khó khăn cho những bệnh nhân mắc bệnh như Mạ Lành của chị ngày nào. Anh Minh đã là kỹ thuật viên lâu năm của Trung tâm Xét nghiệm Sở Y tế, hàng ngày vẫn truyền đạt kinh nghiệm thực hành cho những lứa đàn em, nghe nói đang cộng tác làm thêm với nhiều bệnh viện tư nhân, thu nhập hàng tháng cũng khá cao. Tôi tốt nghiệp chuyên khoa Phụ Sản, gắn bó với Trung tâm Bảo vệ Sức khỏe Bà Mẹ, Trẻ em và Kế hoạch hóa Gia đình, vì tôi khó quên lần hiến máu của Mạ Lành cho mẹ tôi, và nguồn sữa mẹ tôi đã bú chung với chị Hằng…

Thật thiếu sót nếu quên nhắc đến chị Minh Minh. Sau khi tốt nghiệp hệ Nội Nhi, chị hành nghề bác sĩ mấy năm ở huyện Phú Lộc rồi lập gia đình với Johnny Danh, một Việt kiều Mỹ, mấy năm sau sang định cư ở Los Angeles, đã có hai cháu trai. Bằng bác sĩ không sử dụng ở Mỹ được, chị lại đi học điều dưỡng, khi ra hành nghề cũng được bệnh nhân tín nhiệm. Tháng trước, về thăm quê, chị tìm đến tôi, mời đi ăn đặc sản, nhưng tôi đề nghị ghé quán yaourt đường Trương Định để nhắc lại kỷ niệm ngày nào. Đang ăn, nghĩ vẩn vơ, tự nhiên tôi buột miệng: Giờ đã đi xe Mercedès rồi, chị có nhớ ước muốn đi xe Cub 78 ngày trước không? Chị Minh Minh mỉm cười: Quỳnh nhắc chị mới nhớ. Ngày đó, chính chú Ngôn nhờ chị giúp Minh thi cho tốt, nhưng buổi thi Toán đầu tiên, Minh loay hoay để cán bộ coi thi cảnh cáo, chuyển Minh đến bàn cuối phòng, nên môn Toán chỉ chép được hơn nửa bài. Hai môn sau Sinh, Hóa được ngồi gần chị, nên điểm có khá hơn. Rồi chuyện phúc khảo môn Sinh, chị nghĩ khó thành công, họa chăng môn Hóa… Tôi nhận định: Mục đích của màu trắng áo blouse, ngoài việc nhắc nhở người mặc giữ vệ sinh, còn nhắc nhở ý thức giữ được tâm hồn mình trong sạch như màu áo, để mạnh dạn thực hiện thiên chức của người thầy thuốc. Chị Minh Minh gật gù: Chị đã qua những thăng trầm của cuộc sống nên rất hiểu em…

(ngày 27/02/2023 – 68 năm ngày Thầy thuốc Việt Nam)